Giữa bốn bề gió thổi ù tai buốt nhức đỉnh đầu chiều nay, tôi đến ngọn núi nằm ngay sát đường nhựa thụt vào như cái hõm vô duyên dở hơi, sau khi băng qua công viên trơ vơ hồ nước và rất ít ghế đá với đôi bạn trẻ đứng ôm nhau bất động.

Núi
Dục Thúy thuộc địa phận thị xã Ninh Bình, gần chợ Rồng (cùng tên với cái chợ nổi tiếng sầm uất ở thành phố Nam Định) và điểm buôn bán gà sống-- mặc kệ H5N1-- của cả các tỉnh lân cận thường họp tờ mờ sáng.

Đứng trên núi này ngó thấy dòng sông Đáy, xa kia là cầu Non Nước và bãi than đen xỉn điểm xuyết vài ba con thuyền xơ xác neo đậu. Cách biệt là thế, mà vẫn không tránh nổi ầm ào mấy cái tàu hút cát tô đắp công viên- nghe người dân bảo xây đi sửa lại mãi cũng chưa xong.

Trời chắc là rét lắm, người bán vé lừ đừ hơ tay cạnh bếp củi cháy đỏ rực khói tụ quầng lớn, cứ để mặc cô gái chụp ảnh dạo trả lời mệt mỏi giá vé tham quan: Một ngàn (1.000 VND); thu tiền xong, chả có tờ vé nào đưa ra.

So với gần trưa mùa hè năm nọ, lần này trông Dục Thúy vẫn chẳng có gì đổi khác. Đìu hiu chấp nhận thân phận bị bỏ mặc cùng nắng mưa.

Lô cốt thời Pháp thuộc; tượng một liệt sĩ hy sinh mới ngoài tuổi hai mươi;
ngọn tháp vang bóng được dựng lên từ thời Lý cách đây gần 10 thế kỷ.

Gần 40 bài thơ khắc đó đây trên các vách núi còn sót lại chắc khó giữ được vẹn nguyên. Hán tự rõ nét sánh cùng chữ Quốc ngữ mờ đục.

Và cơ man nào là các ký hiệu ghi nhớ những du khách từng đến đây dăm tháng đôi năm, lời lời yêu thương, chằng chịt tuổi tên, quê quán.


Ôi, sự ngạo mạn và dại khờ của nhân gian!

Dục Thúy đi vào sử sách, thơ văn cha ông truyền tụng giờ là thế đấy.


Ai từng đặt chân đến chốn "tiên cảnh trụy trần gian" (trong Giáp cốt văn, chữ "trụy" vẽ lên cảnh nguy hiểm của một đứa bé con rơi từ trên núi xuống), một thời là tiền đồn của cố đô Hoa Lư, trải qua bao đời từ Đinh, Lý, tiền Lê,Trần, Nguyễn,...: Trương Hán Siêu, Lê Thánh Tông, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Cao Bá Quát, Nguyễn Khuyến, vua chúa ngự lãm, tri huyện đề danh, người Tây muốn học hỏi,...?

Bảo là lên chơi, song kỳ thực tôi chỉ loanh quanh mấy chục bước chân, ngó nghiêng, lần tay vào chữ khắc trên đá còn đọc được chưa hết 20 phút đã xong. Khoảng thời gian trên núi chủ yếu dành để ngồi nghe bà hàng nước 63 tuổi kiêm trông giữ miếu thờ, quét rác tỉa cây đã 12 năm nay bộc bạch tâm sự.

Gốc cây đã cháy từ sáng giờ cũng sắp tàn. Bà hàng nước nhóm thêm vỏ dừa cho đượm lửa. Gió lật tấm nhựa thay mái che phần phật theo nhịp cố định.

Chồng chết ở độ tuổi 35; hiện đủ cháu nội, ngoại. Bà hàng nước chỉ mào đầu tí chút lịch sử- qua cái nhìn 'kính nhi viễn chi'- các cụ linh thiêng, rồi say sưa quay về thời đang sống.

Sự hư hỏng của lớp choai choai, lớp 7 lớp 8 đã yêu đương nhăng nhít, làm khổ mẹ cha; người dân chẳng biết lấy gì để ăn, phải đi vay mượn, có tí đất ruộng thì cũng đã bán rồi; tham nhũng, xà xẻo công trình xây dựng đường sá, cầu cống; cán bộ văn hoá giữ ghế, chuyên môn gì mà bao đời vẫn không trùng tu nổi cái di tích nổi tiếng cả nước này; sao không để tư nhân nhận thầu, ắt sẽ khác ngay,...

Tay cầm nhánh cây cời lửa di di xuống đất, giọng bà hàng nước đều đều hơn nửa tiếng đồng hồ rồi mà cơ hồ mặn chuyện lắm. Có vẻ như tôi ngồi đó là dịp bà nói cho đỡ nhạt mồm.


Cái số phận bà thế, tâm đức thế nào mới lên hầu các Ngài, chứ không phải ai làm cái việc trông nom này cũng được (giời ạ, nói đến tiền công thêm bực bõ, chẳng đủ uống chai nước đậu nành mỗi ngày) - bởi thực tế, đôi người đảm trách chưa bao lăm đã tâm thần, hành xử lung tung phải xuống nghỉ.

Bà hàng nước thong thả. Tôi hơi vội, vì sợ trễ chuyến xe cuối cùng về Hà Nội. Thấm lạnh dần, dù núi nhỏ không tuyền là đá. Trời giúp tôi, khi một đám mấy cháu bé áo ấm kỹ càng ồn ào xuất hiện. Một con bé cầm trên tay cuốn truyện trinh thám Sherlock Holme của Conan Doyle.

Tôi xuống núi, lại dạo bộ qua công viên rậm rạp cây, giờ có thêm đôi cặp nằm ngồi và mấy phụ nữ trung niên tích cực uốn mông lắc hông giảm béo gần hồ nước.

Đền
Trương Hán Siêu lặng lẽ then cài, một chiếc xe đạp chở cái trống cỡ vừa dựng trước cổng chẳng thấy bóng ai; sực nhớ đôi câu trong bài thơ khắc núi tương truyền của Ngài:

Trần thế như kim biệt- Phù sinh ngộ tạc phi (Tạm dịch: Thấy đời giờ như đã khác- Kiếp phù du vỡ lẽ lỗi xưa).

Dĩ nhiên, tôi nào dám sánh cái ngông tài hoa như
Thánh Quát khi đến núi này. Bởi mới chưa đầy 2 tiếng đồng hồ trước, tôi vừa được đọc những dòng tự phản ánh bản thân của một nữ thân chủ mắc Tâm thần phân liệt đang độ tuổi học sinh phổ thông:

"...Tôi thấy vui khi mình bình thường;... cảm thấy bối rối khi ở giữa đám đông;... luôn luôn nghĩ về số phận;... vẫn cần phải cải tiến cái đầu..."

Lên chơi núi Dục Thúy chiều nay, lòng tôi vẫn còn dính bám mãi bụi trần- ít nhất vì đất trời đầy gió và một con người hỉ nộ ái ố còn đây...

Bài đăng Mới hơn Bài đăng Cũ hơn Trang chủ